Luật TGPL được xây dựng xuất phát từ tinh thần lấy người được TGPL làm trung tâm nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL theo hướng chuyên nghiệp hóa, sử dụng hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước và xã hội nhằm cung cấp kịp thời dịch vụ pháp lý cho người yếu thế không có khả năng chi trả dịch vụ pháp lý và những người thuộc diện chính sách. Luật TGPL được bố cục thành 8 chương, 48 điều quy định về người được TGPL, tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL, hoạt động TGPL và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với hoạt động TGPL.
Mục Lục
1. Luật đã khẳng định rõ nét hơn trách nhiệm của Nhà nước trong công tác TGPL và có sự phân biệt hoạt động này với dịch vụ pháp lý thiện nguyện của các tổ chức xã hội
– Luật TGPL năm 2006 đã quy định TGPL là trách nhiệm của Nhà nước. Bên cạnh đó, trong các Bộ luật, luật về tố tụng mới được Quốc hội ban hành thời gian gần đây cũng đã ghi nhận, khẳng định vấn đề này (như khoản 3 Điều 19 Luật Tố tụng hành chính; khoản 3 Điều 9 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự). Tuy nhiên đến các quy định của Luật TGPL năm 2017 đã làm rõ nét hơn nội dung TGPL là trách nhiệm của Nhà nước với những nội dung cụ thể như sau:
+ Luật có 01 điều quy định về vấn đề này với tiêu đề “Chính sách của Nhà nước về trợ giúp pháp lý” (Điều 4), thể hiện rõ hơn so với tên điều “Chính sách trợ giúp pháp lý” quy định Điều 6 Luật TGPL năm 2006. Nội dung Điều 4 đã làm rõ vai trò của Nhà nước, qua đó bảo đảm được bản chất, mục tiêu đặt ra trong công tác này. Tại khoản 1 Điều 4 đã khẳng định một lần nữa “TGPL là trách nhiệm của Nhà nước”, do đó với tư cách là một trong những phương thức để bảo vệ quyền con người, quyền công dân, đòi hỏi Nhà nước có các chính sách để bảo đảm quyền được TGPL nhằm đáp ứng nhu cầu tiếp cận pháp luật ngày càng cao của người dân. Trong việc cung cấp dịch vụ đó phải đặt vấn đề chất lượng là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu, do đó Nhà nước cần có chính sách để nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL.
Bên cạnh đó, trách nhiệm của Nhà nước còn thể hiện ở chỗ có chính sách thu hút các nguồn lực thực hiện TGPL và hỗ trợ, khuyến khích, ghi nhận và tôn vinh các tổ chức, cá nhân tham gia, đóng góp, công tác TGPL để khích lệ sự tham gia nhiều hơn nữa của các lực lượng xã hội đối với hoạt động TGPL. Bằng các quy định cụ thể trong Luật đã tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện, tiêu chuẩn tham gia thực hiện TGPL và các chủ thể này khi ký hợp đồng thực hiện TGPL được Nhà nước chi trả thù lao thực hiện vụ việc.
+ So với Luật TGPL năm 2006, Luật TGPL năm 2017 đã bổ sung 01 Điều (Điều 5) quy định về nguồn tài chính cho công tác TGPL, theo đó bao gồm nguồn ngân sách nhà nước; đóng góp, tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài nước và các nguồn hợp pháp khác. Nhà nước bố trí kinh phí trong dự toán ngân sách hằng năm của cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về TGPL theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước. Đồng thời, đối với các tỉnh chưa tự cân đối được ngân sách, Luật quy định việc ưu tiên bố trí ngân sách từ số bổ sung cân đối ngân sách hằng năm để hỗ trợ cho việc thực hiện vụ việc TGPL phức tạp, điển hình. Đây là điểm mới quan trọng so với Luật TGPL năm 2006, khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm cho người thuộc diện TGPL được giúp đỡ pháp lý khi họ có các vụ việc TGPL cụ thể, đồng thời nhằm khắc phục phục phần nào tình trạng bỏ sót nhu cầu TGPL của người dân, qua đó thể hiện cam kết của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền được TGPL được thực thi trên thực tế.
– Một vấn đề nữa là, ở nước ta chưa có cách hiểu rõ ràng về TGPL (tiếng Anh là từ legal aid) và dịch vụ pháp lý miễn phí, thiện nguyện (tiếng Anh là từ probono); về trách nhiệm của Nhà nước đối với dịch vụ TGPL. Do đó, các quy định của pháp luật hiện hành về TGPL và dịch vụ pháp lý thiện nguyện của luật sư, các tổ chức xã hội chưa phân định cụ thể giữa hai dịch vụ này, dẫn đến trong thực tế việc áp dụng pháp luật chưa thống nhất, hạn chế hiệu quả quản lý, kết quả, chất lượng dịch vụ.
Luật TGPL năm 2017 cũng đưa ra khái niệm TGPL đi vào bản chất của dịch vụ, cụ thể tại Điều 2: “TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL trong vụ việc TGPL theo quy định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật”. Với khái niệm này, TGPL được nêu lên với bản chất và đặc điểm sau: (1) TGPL là cung cấp vụ việc, (2) mục đích trực tiếp là bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Cùng với quy định tại khoản 1 Điều 30 đã nêu rõ yêu cầu TGPL chỉ được thụ lý khi có vụ việc cụ thể liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL, điều này sẽ dần đưa hoạt động TGPL đi đúng bản chất là cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí trong các vụ việc cụ thể như khái niệm nêu tại Điều 2.
Như vậy, với những quy định khẳng định rõ nét vai trò của Nhà nước trong công tác TGPL và khái niệm TGPL như đã nêu trên đã có sự phân biệt giữa TGPL và dịch vụ pháp lý thiện nguyện của các cá nhân, tổ chức xã hội. Hoạt động TGPL cần tuân theo các quy định của Luật này về đối tượng, tổ chức và người thực hiện, hình thức, lĩnh vực TGPL… và là trách nhiệm của Nhà nước trong việc tổ chức thực hiện để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho những người thuộc diện được TGPL. Việc cung cấp dịch vụ pháp lý thiện nguyện của xã hội (theo Luật Luật sư, Nghị định số 77/2008/NĐ-CP về tư vấn pháp luật) không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này.
2. Mở rộng diện người được TGPL theo các nguyên tắc, tiêu chí cụ thể, phù hợp với bản chất của TGPL và điều kiện đặc thù của đất nước
Đây là vấn đề được quan tâm và thảo luận nhiều nhất trong quá trình xây dựng Luật TGPL năm 2017. Qua nhiều lần thảo luận và ý kiến góp ý của các đại biểu Quốc hội, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, Quốc hội đã thống nhất việc xác định diện người được TGPL cần phải dựa trên những nguyên tắc, tiêu chí cụ thể, phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật hiện hành và điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước. Theo đó, việc quy định người được TGPL dựa trên 02 nguyên tắc, tiêu chí sau đây:
Một là, thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước về đền ơn đáp nghĩa đối với người có công với cách mạng; chính sách dân tộc; chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi bị buộc tội, chính sách chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Đây là những đặc thù của Việt Nam trong việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế – xã hội.
Hai là, trợ giúp đối với một số nhóm đối tượng yếu thế nhất trong xã hội có khó khăn về tài chính, không đủ khả năng chi trả thù lao cho luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý. Đây là bản chất của hoạt động TGPL đã được nhiều nước công nhận trên thế giới.
So với Luật TGPL năm 2006 chỉ quy định 06 diện người được TGPL thì trong bối cảnh kinh tế – xã hội mới của đất nước, tại Điều 7 của Luật TGPL năm 2017 đã mở rộng với 14 diện người được TGPL, thậm chí có diện người kế thừa từ Luật TGPL năm 2006 cũng được phát triển hơn, cụ thể như sau:
– Nhóm người được kế thừa hoàn toàn từ Luật TGPL năm 2006 gồm 02 diện là: (1) Người có công với cách mạng (khoản 1); (2) Người thuộc hộ nghèo (khoản 2).
– Nhóm người được kế thừa và mở rộng từ Luật TGPL năm 2006 gồm 02 diện là: (1) Trẻ em (khoản 3, được mở rộng từ trẻ em không nơi nương tựa); (2) Người dân tộc thiểu số cư trú tại các vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn (khoản 4, được mở rộng từ người dân tộc thiểu số thường trú tại các vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn).
– Nhóm người được bổ sung mới gồm 02 diện là: (1) Người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi (khoản 5, hiện nay đang thuộc trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa theo quy định Bộ luật Tố tụng hình sự); (2) Người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo.
– Nhóm người áp dụng điều kiện có khó khăn về tài chính đối với 08 diện tại khoản 6 là:(1) Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; (2) người nhiễm chất độc da cam; (3) người cao tuổi; (4) người khuyết tật; (5) người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; (6) nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; (7) nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người; (8) người nhiễm HIV để cung cấp cho những người thực sự có nhu cầu nhưng không có khả năng tài chính để thuê dịch vụ pháp lý. Điều kiện khó khăn về tài chính sẽ được quy định tại Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết Luật TGPL. Như vậy, đối với nhóm người này phải đáp ứng hai điều kiện: Có khó khăn về tài chính theo hướng dẫn của Chính phủ và thuộc một trong tám diện người nêu trên.
Có thể thấy việc mở rộng diện đối tượng TGPL nêu trên đã thể hiện rõ nét chính sách nhân văn, sự quan tâm toàn diện của Đảng và Nhà nước đối với các đối tượng chính sách và đối tượng yếu thế. Khi đáp ứng được đầy đủ, chất lượng nhu cầu TGPL của các diện người được quy định trong Luật cũng sẽ góp phần thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
3. Nâng cao chất lượng dịch vụ và chuyên nghiệp hóa hoạt động TGPL thông qua việc chuẩn hóa đội ngũ người thực hiện TGPL, quy định tiêu chuẩn tham gia thực hiện TGPL đối với tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật và quản lý chất lượng vụ việc TGPL
Qua đánh giá tổng kết 08 năm thi hành Luật TGPL năm 2006, cho thấy chất lượng vụ việc TGPL nhiều lúc còn chưa được bảo đảm, chưa chuyên nghiệp, chưa được xã hội đánh giá cao. Có thể nói một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó là do trình độ, năng lực của người thực hiện TGPL, tổ chức thực hiện TGPL chưa cao. Bên cạnh đó vấn đề nhận thức chưa đúng về hoạt động TGPL khi cho rằng đây là hoạt động miễn phí nên chất lượng không cần cao, ngoài ra cơ chế quản lý chất lượng, việc kiểm tra, giám sát, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL chưa được chú trọng, mang tính hình thức. Nhận diện được vấn đề đó, nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL là một trong những mục tiêu được quan tâm, xuyên suốt khi triển khai Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015 – 2025 và cho đến khi xây dựng, thông qua Luật TGPL năm 2017. Để đạt được mục tiêu này Luật TGPL năm 2017 đã có các quy định chuẩn hóa đội ngũ người thực hiện TGPL, quy định tiêu chuẩn đối với tổ chức tham gia TGPL và quản lý chất lượng vụ việc TGPL, cụ thể:
a) Về người thực hiện TGPL
Theo quy định tại khoản 1 Điều 17 người thực hiện TGPL bao gồm 04 nhóm chủ thể như sau: (1) Trợ giúp viên pháp lý, (2) luật sư thực hiện TGPL theo hợp đồng với Trung tâm TGPL nhà nước và theo phân công của tổ chức tham gia TGPL; tư vấn viên pháp luật có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên làm việc tại tổ chức tham gia; (4) cộng tác viên TGPL.
Với quan điểm nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL và phát triển công tác này theo hướng chuyên nghiệp hóa, Luật đã chuẩn hóa, nâng cao tiêu chuẩn đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý như luật sư, bổ sung tiêu chuẩn phải trải qua tập sự nghề (trợ giúp pháp lý hoặc luật sư) tại khoản 3 Điều 19. Điều này là rất cần thiết để chuyên viên pháp lý có thời gian vận dụng kiến thức, giúp họ hoàn thiện những kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng tham gia tố tụng để tự tin cung cấp dịch vụ pháp lý khi được bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý. Việc tập sự TGPL tương tự như tập sự luật sư với tư cách là một dịch vụ pháp lý tương đương. Đồng thời, Luật tiếp tục ghi nhận sự tham gia của đội ngũ luật sư, tư vấn viên pháp luật có kinh nghiệm đang hoạt động có hiệu quả, đồng thời chọn lọc những người có kiến thức pháp luật, kinh nghiệm thực tiễn và bảo đảm về mặt thời gian tham gia TGPL để làm cộng tác viên TGPL một cách thực chất, hiệu quả. Quy định này nhằm chuẩn hóa đội ngũ người thực hiện TGPL, xuất phát từ thực trạng khi triển khai Luật TGPL năm 2006 cộng tác viên TGPL có trình độ không đồng đều, kể cả những người không có trình độ pháp luật như già làng, trưởng bản… cũng được thực hiện TGPL; số lượng Cộng tác viên TGPL tuy đông nhưng lại thực hiện ít vụ việc TGPL.
Với những người thực hiện TGPL có trình độ, kinh nghiệm như quy định của Luật vừa thể hiện xu hướng đa dạng hóa chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý, vừa có tính kế thừa Luật hiện hành, đặc biệt là đã bảo đảm nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL. Qua đó sẽ tạo sự tin tưởng từ người được TGPL đối với người thực hiện TGPL và góp phần nâng cao được vị trí, vai trò của công tác TGPL trong xã hội.
Ngoài ra, trong quá trình xây dựng Dự án Luật này cũng có nhiều ý kiến đề nghị chuyển đổi chức danh Trợ giúp viên pháp lý thành luật sư công cho đúng phù hợp với bản chất. Tuy nhiên, nếu thay đổi tên gọi từ “trợ giúp viên pháp lý” sang thành “luật sư công” sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, không đồng bộ với Luật Luật sư, Luật Viên chức và các luật về tố tụng (sửa đổi) vừa mới ban hành. Bởi vì, theo quy định của Luật TGPL thì Trợ giúp viên pháp lý là viên chức nhà nước; nhưng theo quy định của Luật Luật sư thì viên chức lại không được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư nên không được hành nghề luật sư. Hơn nữa, Trợ giúp viên pháp lý cũng đã được quy định trong các đạo luật về tố tụng. Luật sư công theo pháp luật một số nước, hiểu là luật sư của Nhà nước, thực hiện những công việc do Nhà nước giao, trong đó có thể có hoạt động TGPL. Vì vậy mà trong Luật TGPL năm 2017 vẫn giữ lại chức danh này, vì suy cho cùng chỉ là thay đổi tên gọi, do vậy sẽ tiếp tục nghiên cứu và đề xuất trong giai đoạn mới.
b) Về tổ chức tham gia TGPL
Luật huy động các tổ chức tham gia TGPL bao gồm tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật ký kết hợp đồng thực hiện TGPL với Sở Tư pháp thực hiện bằng nguồn kinh phí nhà nước hoặc đăng ký tham gia TGPL bằng nguồn lực của chính tổ chức đó. Việc đa dạng hóa chủ thể cung cấp dịch vụ với các cơ chế này sẽ thu hút và lựa chọn được các tổ chức có các điều kiện đáp ứng yêu cầu TGPL của người dân, vừa bảo đảm yêu cầu quản lý, nâng cao trách nhiệm của tổ chức thực hiện TGPL và sử dụng có hiệu quả kinh phí của Nhà nước.
Để khắc phục tình trạng tham gia TGPL một cách hình thức, không hiệu quả của các tổ chức xã hội, khác với Luật TGPL năm 2006, việc tham gia thực hiện TGPL của các tổ chức này phải tuân thủ các điều kiện tối thiểu theo quy định của Luật, phù hợp với tính chất công việc TGPL nhằm bảo đảm chất lượng dịch vụ như tại Điều 14 và Điều 15 của Luật, cụ thể: (1) Có lĩnh vực đăng ký hoạt động phù hợp với lĩnh vực TGPL theo quy định của Luật này; (2) Là tổ chức hành nghề luật sư; tổ chức tư vấn pháp luật có ít nhất 01 tư vấn viên pháp luật có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên hoặc 01 luật sư làm việc thường xuyên tại tổ chức; (3) Có cơ sở vật chất phù hợp với hoạt động TGPL; (4) Không đang trong thời gian phải thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật. Đặc biệt, để ký hợp đồng với các tổ chức có điều kiện tốt nhất cung cấp dịch vụ TGPL Sở Tư pháp sẽ tổ chức lựa chọn theo một quy trình chặt chẽ phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Hơn nữa, Luật có cơ chế trả thù lao cho các tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL nhằm khuyến khích sự tham gia TGPL có chất lượng hơn của các tổ chức này. Điều này đã khắc phục được phần nào bất cập trong việc tham gia và chất lượng việc tham gia một cách hình thức, không chất lượng của các tổ chức trong thời gian qua.
Như vậy, không phải bất kỳ tổ chức, cá nhân nào có nguyện vọng đều được cung cấp dịch vụ TGPL như Luật năm 2006. Theo Luật TGPL năm 2017, để được cung cấp dịch vụ TGPL, các tổ chức, cá nhân cần đáp ứng yêu cầu, điều kiện tối thiểu do Luật định để bảo đảm chất lượng dịch vụ họ cung cấp. Có thể nói, với những quy định chặt chẽ ngay từ khi xác định các tổ chức, cá nhân có quyền cung cấp dịch vụ TGPL, Nhà nước đã thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý có chất lượng cho người nghèo, đối tượng chính sách và các đối yếu thế khác trong xã hội. Đồng thời, việc huy động các tổ chức tham gia thực hiện TGPL thông qua cơ chế ký hợp đồng TGPL sẽ tạo sự cạnh tranh giữa các tổ chức thực hiện TGPL, từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL của các tổ chức thực hiện TGPL nói chung, Trung tâm TGPL nhà nước nói riêng.
c) Quản lý chất lượng vụ việc TGPL
Một trong những bất cập của công tác quản lý đối với hoạt động TGPL là việc nắm bắt thông tin về tổ chức và các mặt hoạt động TGPL, đặc biệt là chất lượng TGPL chưa thật sự hiệu quả, thủ công, chưa ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành. Luật TGPL năm 2017 đặt ra yêu cầu đối với việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý đối với hoạt động này, nhất là quản lý chất lượng vụ việc TGPL thông qua quy định hồ sơ điện tử của từng vụ việc TGPL được số hóa, cập nhật vào hệ thống quản lý vụ việc TGPL và lưu trữ tại cơ sở dữ liệu về TGPL (Điều 39). Thời gian tới, phần mềm quản lý tổ chức và hoạt động TGPL cần được nghiên cứu để có những cải tiến toàn diện, đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành trong điều kiện mới. Bên cạnh đó, Luật cũng giao Bộ Tư pháp có nhiệm vụ tổ chức việc thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL (khoản 2 Điều 42). Để thực hiện nhiệm vụ này Bộ Tư pháp sẽ có kế hoạch xây dựng quy định về quy trình, thủ tục đánh giá, yêu cầu đối với người đánh giá, quy trình đánh giá chặt chẽ. Nếu như nâng cao tiêu chuẩn đội ngũ người thực hiện TGPL và tổ chức thực hiện TGPL là khâu “đầu vào” thì việc tăng cường quản lý chất lượng vụ việc TGPL trong suốt quá trình thực hiện và đánh giá chất lượng vụ việc được coi là khâu “đầu ra” nhằm đánh giá toàn diện chất lượng của một dịch vụ.
4. Tập trung thực hiện vụ việc TGPL theo đúng bản chất của hoạt động TGPL
Để khắc phục tình trạng dàn trải trong triển khai công tác TGPL, thiếu trọng tâm, trọng điểm, sử dụng không có hiệu quả nguồn lực, không đạt được bản chất, mục đích của TGPL là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL trong các vụ việc cụ thể, tại khoản 2 Điều 27 Luật TGPL năm 2017 quy định 03 hình thức TGPL bao gồm: tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và đại diện ngoài tố tụng (mà không quy định “các hình thức TGPL khác”). Định hướng tập trung thực hiện vụ việc TGPL đã được Bộ Tư pháp chỉ đạo triển khai từ khi triển khai Đề án Đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015 – 2025 đến nay và tạo nên sự chuyển biến rất tích cực trong hoạt động TGPL. Hầu hết Trợ giúp viên pháp lý đã có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về nhiệm vụ trong tâm của công tác TGPL, tích cực hơn trong việc trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là kỹ năng tham gia tố tụng, số lượng và chất lượng các vụ việc tố tụng tăng lên và dần được các cơ quan tiến hành tố tụng ghi nhận. Đồng thời, Luật TGPL năm 2017 cũng đã chỉnh tinh nội hàm của các hình thức TGPL bảo đảm hoạt động đi đúng trọng tâm, bản chất.
Ngoài ra, Luật cũng đặt ra yêu cầu đối với đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý là viên chức nhà nước tập trung thực hiện vụ việc tố tụng thông qua quy định Trợ giúp viên pháp lý không thực hiện vụ việc tham gia tố tụng trong thời gian 02 năm liên tục sẽ bị miễn nhiệm, trừ trường hợp do nguyên nhân khách quan (Điểm d khoản 1 Điều 22).
Trong quá trình xây dựng Dự án Luật này có nhiều ý kiến đề nghị giữ lại hình thức TGPL lưu động. Tuy nhiên, về bản chất đây không phải là hình thức TGPL mà là cách thức tổ chức thực hiện TGPL ngoài trụ sở Trung tâm TGPL nhà nước và nội dung này đã được quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật. Trong quá trình thực hiện Luật, Bộ Tư pháp sẽ hướng dẫn cụ thể việc thực hiện nghiệp vụ này để bảo đảm đưa TGPL đến được với người dân. Tuy nhiên, cần có sự thay đổi nhận thức, TGPL lưu động là việc người thực hiện TGPL đi đến để tiếp nhận và thực hiện vụ việc TGPL, khác với cách triển khai như thời gian qua đã dẫn đến việc chồng lấn với hoạt động giáo dục, phổ biến pháp luật gây lãng phí nguồn lực con người và tài chính của Nhà nước.
5. Bổ sung các quy định về trình tự thực hiện TGPL tạo điều kiện thuận lợi cho người được TGPL, nhất là việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp lý trong hoạt động tố tụng
Nhằm khắc phục thực tiễn về một số thủ tục tiếp nhận, thực hiện TGPL chưa thuận lợi, Luật TGPL năm 2017 đã bổ sung nhiều quy định mới nhằm tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận và sử dụng dịch vụ, ứng dụng công nghệ thông tin, qua đó tăng cường cơ chế bảo đảm quyền được TGPL, như: quy định phải công bố danh sách người thực hiện TGPL, tổ chức thực hiện TGPL để người dân biết và thực hiện quyền lựa chọn của mình (khoản 2 Điều 10 và khoản 2 Điều 17); ngoài hình thức nộp đơn trực tiếp, gửi qua đường bưu điện, người dân có thể nộp đơn yêu cầu qua hình thức điện tử, fax để tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại (điểm b và điểm c khoản 2 Điều 29); có thể yêu cầu TGPL thông qua người thân thích, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác (khoản 2 Điều 8); thụ lý giải quyết ngay khi người yêu cầu chưa thể cung cấp hồ sơ theo quy định nhưng cần thực hiện TGPL ngay như vụ việc sắp hết thời hiệu, sắp đến ngày xét xử (khoản 4 Điều 30). Điểm mới này thể hiện rõ nét quan điểm lấy người được TGPL làm trung tâm, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi tối đa để người dân biết và thực hiện quyền của mình, bảo đảm trong những vụ việc cụ thể thì quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL được bảo vệ kịp thời.
6. Nâng cao vai trò của Sở Tư pháp thông qua việc ký hợp đồng với các tổ chức tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý
Có thể nói, vai trò của Sở Tư pháp trong việc giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về TGPL ở địa phương được nâng lên rõ nét thông qua quy định giao cho Sở Tư pháp thẩm quyền lựa chọn ký hợp đồng thực hiện TGPL (khoản 1 và khoản 2 Điều 14). Thông qua việc quản lý, đánh giá hoạt động của Trung tâm TGPL nhà nước và nắm bắt yêu cầu TGPL tại địa phương quyết định việc lựa chọn, ký hợp đồng thực hiện TGPL với các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật có nguyện vọng, đáp ứng các điều kiện tối thiểu của Luật nhằm tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu TGPL, tránh việc bỏ sót người được TGPL khi họ cần giúp đỡ pháp lý. Việc lựa chọn sẽ được thực hiện thông qua quy trình chặt chẽ, tạo tiền đề cho việc cung cấp dịch vụ pháp lý có chất lượng. Để thực hiện nhiệm vụ này, hàng năm Sở Tư pháp phải dự toán kinh phí để ký kết hợp đồng với các tổ chức xã hội thực hiện TGPL.
7. Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan đến hoạt động TGPL, đặc biệt quy định rõ hơn trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luật này không chỉ quy định trách nhiệm quản lý nhà nước của Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh mà còn quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức khác như các cơ quan có liên quan đến hoạt động trợ giúp pháp lý trong tố tụng, các cơ quan nhà nước có liên quan, tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư, tổ chức chủ quản của tổ chức tư vấn pháp luật nhằm tăng cường cơ chế phối hợp để bảo đảm quyền được TGPL, nâng cao chất lượng dịch vụ và quản lý nhà nước về TGPL, cụ thể:
a) Luật TGPL quy định rõ trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng phối hợp tạo điều kiện cho người được TGPL được hưởng quyền TGPL, tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.
– Hiện nay, Thông tư liên tịch số 11/2013/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 04/7/2013 hướng dẫn thực hiện một số quy định của pháp luật về TGPL trong hoạt động tố tụng đã quy định trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phối hợp thực hiện TGPL. Tuy nhiên, qua thực tiễn triển khai, ở một số nơi vẫn còn tình trạng các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực sự phối hợp tốt để tạo điều kiện để người được TGPL được thụ hưởng quyền của mình như cán bộ tiếp công dân, người tiến hành tố tụng chưa chú trọng đến việc hướng dẫn, giải thích về quyền được TGPL; cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực hiện việc thông báo lịch xét xử bằng văn bản hoặc giao nhưng chưa kịp thời các quyết định tố tụng cho tổ chức và người thực hiện TGPL… Việc bổ sung quy định về trách nhiệm phối hợp của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công án và các cơ quan tiến hành tố tụng ở tầm Luật TGPL (Điều 41) sẽ giúp khắc phục những bất cập nêu trên, dần bảo đảm quyền được TGPL trên thực tế, trạnh bỏ sót người được TGPL có nhu cầu.
– Khoản 3 Điều 31 Luật TGPL quy định trong thời hạn 12 giờ kể từ thời điểm nhận được yêu cầu TGPL của người bị bắt, người bị tạm giữ hoặc trong thời hạn 24 giờ kể từ thời điểm nhận được yêu cầu TGPL của bị can, bị cáo, người bị hại là người được TGPL theo quy định của pháp luật về tố tụng, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo cho Trung tâm TGPL nhà nước tại địa phương. Quy định này cụ thể hơn về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng đã được ghi nhận tại Điều 75 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đồng thời cũng bảo đảm để Trung tâm TGPL nhà nước cử người thực hiện TGPL kịp thời trong thời hạn tạm giữ, tạm giam theo quy định pháp luật tố tụng. Đây là những nội dung quan trọng trong bối cảnh Bộ luật Tố tụng hình sự quy định việc chỉ định người bào chữa mở rộng cho những bị can, bị cáo về tội có khung hình phạt là 20 năm tù thì số lượng vụ việc TGPL được cơ quan tiến hành tố tụng giới thiệu sẽ tăng lên.
b) Đối với các cơ quan nhà nước có liên quan, Luật quy định trong quá trình thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình nếu phát hiện công dân thuộc diện được TGPL, cơ quan nhà nước có trách nhiệm giải thích quyền được TGPL và giới thiệu đến tổ chức thực hiện TGPL (Điều 42). Đối với tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư, tổ chức chủ quản của tổ chức tư vấn pháp luật sẽ phối hợp trong việc quản lý, giám sát việc thực hiện TGPL của luật sư, tư vấn viên pháp luật, tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật (Điều 43 và Điều 44).
8. Sắp xếp, tinh gọn các Chi nhánh của Trung tâm TGPL của Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, quy định chặt chẽ điều kiện thành lâp Chi nhánh
Từ tổng kết thực tiễn thi hành Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, nhiều Chi nhánh được thành lập nhưng thiếu nguồn lực hoạt động hoặc kết quả hoạt động không cao, đồng thời thực hiện chủ trương tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị, Luật TGPL đã quy định trong 01 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực, địa phương phải thực hiện việc rà soát, sắp xếp lại, sáp nhập hoặc giải thể các Chi nhánh đã được thành lập để bảo đảm hiệu quả hoạt động (khoản 4 Điều 48). Chỉ trong trường hợp thực sự cần thiết để đáp ứng nhu cầu của nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập mới Chi nhánh theo những điều kiện chặt chẽ, tránh việc thành lập tràn lan nhưng hiệu quả hoạt động thấp. Cụ thể, Chi nhánh chỉ được thành lập tại các huyện ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, giao thông không thuận tiện đến Trung tâm TGPL nước, chưa có tổ chức hành nghề luật sư hoặc tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL (khoản 2 Điều 11).
Như vậy, với những điểm mới nêu trên, Luật TGPL tạo khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển bền vững công tác TGPL theo hướng chuyên nghiệp, sử dụng hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước và xã hội để cung cấp kịp thời dịch vụ pháp lý cho người yếu thế không có khả năng chi trả dịch vụ pháp lý và những người thuộc diện chính sách được TGPL, tạo bước chuyển biến căn bản trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL.
Tham khảo thêm một số thông hữu ích về luật: https://thptchuyensonla.edu.vn/gioi-thieu-van-ban/